Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 19 tháng 1, 2017

CÁC CUỘC DỊCH THUẬT Ở CHÂU ÂU THỜI KÌ PHỤC HƯNG LẦN 1 VÀ 2

BÀI #2. CÁC PHONG TRÀO DỊCH THUẬT Ở PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY

Bài gồm 2 phần, các cuộc dịch thuật ở phương Đông và các cuộc dịch thuật ở Châu Âu. Sau đây là phần thứ hai.


2.2 CÁC CUỘC DỊCH THUẬT Ở CHÂU ÂU THỜI KÌ PHỤC HƯNG LẦN 1 VÀ 2

2.2.1 CÔNG CUỘC DỊCH THUẬT THỜI KÌ PHỤC HƯNG LẦN 1- THẾ KỈ 12
Công cuộc dịch thuật lần 1 (từ giữa thế kỷ XI - đến giữa thế kỷ XIII ) thực hiện việc chuyển ngữ các trước tác của các tác giả cổ đại từ tiếng Ả Rập và Hy Lạp sang tiếng Latinh, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của giáo dục, triết học, nghệ thuật và khoa học ở Châu Âu thời giữa Trung cổ. Người khởi xướng phong trào dịch thuật này là Gerbert ở Aurillac (khoảng 940 - 1003), sau này trở thành Giáo hoàng La Mã Sylvester II (999 - 1003).
Giai đoạn giữa Trung Cổ là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ 11, 12, và 13. Giai đoạn giữa Trung Cổ đạt được những thành tựu to lớn về giáo dục, triết học, nghệ thuật và khoa học.
Việc dạy khoa học và triết học trong giai đoạn đầu Trung Cổ được dựa trên một số lượng ít ỏi các bản sao và các bài bình luận của Hy Lạp cổ đại còn sót lại sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Hầu hết chúng chỉ được giảng dạy bằng tiếng Latinh, vì những hiểu biết về tiếng Hy Lạp là rất giới hạn.
Tình hình này được thay đổi vào thế kỷ 12. Sự phục sinh nền học vấn ở châu Âu được bắt đầu với sự thành lập các trường đại học thời Trung Cổ (những trường đại học lâu đời nhất châu Âu ra đời thời kì này như Bollogna cuối thế kỷ XI, Oxford (Anh) thế kỷ XII, Sorbonne (Pháp) năm 1215, Modena (Italy) năm 1175…), đánh dấu sự chuyển dịch trung tâm tri thức từ tu viện sang các trung tâm đào tạo và lan ra ngoài xã hội.
Việc tiếp xúc với Đế chế Byzantine và thế giới Hồi giáo trong những cuộc Thập tự chinh và Tái chinh phục đã giúp châu Âu tiếp cận được với các kiến thức khoa học bằng tiếng Ả Rập và Hy Lạp, bao gồm cả những công trình của Aristotle, Alhazen, và Averroes. Qua việc dịch và truyền bá các tác phẩm này, các trường đại học châu Âu đã dọn đường cho cộng đồng khoa học phát triển.
Tới đầu thế kỷ 13. hầu như tất cả các công trình học thuật của các tác giả cổ đại đã được dịch ra tiếng Latinh với độ chính xác cao, giúp thuận tiện cho việc dạy và học bằng lời ở các đại học và tu viện. Các nghiên cứu về khoa học tự nhiên trong các công trình này được mở rộng ra bởi các học giả như Robert Grosseteste, Roger Bacon, Albertus Magnus và Duns Scotus. Tiền thân của phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại có thể được thấy trong sự nhấn mạnh của Grosseteste rằng toán học chính là phương thức để thấu hiểu tự nhiên và trong cách tiếp cận theo chủ nghĩa kinh nghiệm của Bacon.
Thế kỷ 12 và 13 cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều phát minh cơ bản và những cải tiến trong cách sản xuất. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiêu biểu bao gồm cối xay gió, việc in ấn, thuốc súng, mắt kính, đồng hồ và những chiếc tàu tốt hơn. Hai thứ cuối cùng đã giữ một vai trò quan trọng trong những cuộc thám hiểm sau này.
Thời gian im ắng kéo dài nhiều thế kỉ khắp châu Âu trong hoạt động nghiên cứu tự nhiên chấm dứt vào thế kỷ X, khi xuất hiện lại các thành thị và nảy nở những tiền đề của làn sóng công nghệ mới. Nguồn lực của biến đổi tiến bộ công nghệ chỉ có thể tìm ở tri thức khoa học, nhưng người châu Âu hiểu ra điều này rất chậm. Xung lực đầu tiên làm cho tri thức cổ đại lưu giữ trong các di cảo viết tay thời cổ và trong các sách Arập bắt đầu trở lại với châu Âu là do Gerbert ở Aurillac (khoảng 940 - 1003), người đi vào lịch sử với tên gọi là Giáo hoàng La Mã Sylvester II (999 - 1003) tạo nên .
Ông tiếp thu được học vấn uyên bác ở xứ Tây Ban Nha thuộc Arập, nơi ông trải qua 3 năm trong tu viện Santa - Maria de Ripoi, nổi danh vì có một thư viện tuyệt vời. Một số nhà viết sử còn kể về chuyến du lịch Ấn Độ của ông. Nhờ đó Gerbert tiếp cận được với hai dân tộc có nền giáo dục tốt nhất thời ấy là Ấn Độ và Arập… Là người ham học phi thường, ông say mê đọc sách, và đến cuối đời ông đã sưu tầm được rất nhiều sách, phần lớn là di cảo quý về toán học, siêu hình học, giả kim thuật, chiêm tinh học, ma thuật... Chính ông đã du nhập vào châu Âu hệ thống đếm của Ấn Độ, Arập thay cho hệ đếm La Mã rất cồng kềnh khó dùng cho số học.
Gerbert khởi đầu việc dịch thuật các bài giảng Arập và Hi Lạp cổ đại ra tiếng La tinh, thứ công việc rất khó nhọc và còn được tiếp tục rất lâu sau khi ông mất. Người ta gọi đó là thời đại của các nhà dịch thuật. Rất nhiều nhà bác học cống hiến cả đời cho việc dịch các tác gia Hi Lạp cổ đại và Arập. Nhiều di cảo quý nhập vào châu Âu theo con đường Byzantin, các nước Hồi giáo (trước hết là Tây Ban Nha thuộc Arập) và cả Ấn Độ nữa. Qua hai thế kỉ, từ giữa thế kỷ XI - đến giữa thế kỷ XIII, phần lớn các trước tác Arập và Hi Lạp cổ đại đã được dịch sang tiếng La tinh. Đồng thời nền giáo dục châu Âu cũng bắt đầu phát triển. Những trường đại học lâu đời nhất châu Âu ra đời thời kì này như ở Bollogna cuối thế kỷ XI, ở Oxford (Anh) thế kỷ XII, ở Paris (trường Sorbonne) năm 1215…Cơ sở cho các trường đại học tổng hợp đó là các trường giáo dục đại cương (tiếng La Tinh: studia generalia) dạy lôgic, tu từ học (thuật hùng biện) ngữ pháp hay các trường y.
Vài thế kỉ sau đó các nhà bác học tập trung nỗ lực tìm hiểu và bình giảng những văn bản cổ đại mới được tái phát hiện. Từ thời đại dịch thuật người ta chuyển sang thời đại bình giảng.
“Công cuộc dịch thuật vĩ đại thời kỳ này chuyển ngữ sang tiếng La tinh những tác phẩm kinh điển của các học giả Hy Lạp như Aristote, Euclid, Hippocrates, Galen, Ptolemy và của một số học giả Ả rập như Alhazen (Quang học), al-Khawarizmi (Đại số). Cuộc dịch thuật này ảnh hưởng quyết định đến đời sống trí thức châu Âu trong việc hình thành một thế giới quan đầy tính lý tính, lô gích, khoa học, xem thế giới là một cỗ máy được tổ chức tinh vi nhưng có thể hiểu được, từ các hành tinh đến con người, động vật, vật chất vô sinh, thể hiện tiếp truyền thống của Khai minh Ionia.” (TS Nguyễn xuân Sanh)

2.2.2 CÔNG CUỘC DỊCH THUẬT THỜI KÌ PHỤC HƯNG LẦN 2- THẾ KỈ 14-16
Phục hưng là công cuộc tái khám phá và làm giàu có thêm những giá trị của nền văn minh phương Tây đã một thời bị lãng quên. Công cuộc dịch thuật lần 2 (từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XV ) thực hiện việc chuyển ngữ các trước tác tiếng Latinh cổ điển và tiếng Hy Lạp sang ngôn ngữ của các dân tộc ở Châu Âu, mang lại vật liệu tri thức mới cho các học giả châu Âu và cho đại chúng nhờ sự phát triển của công nghệ in ấn, đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ của châu lục này trong thời hiện đại mà thành quả gần nhất sau đó là cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17 với sự xuất hiện của Galilei, Kepler, Descartes và Newton.
***
Phục Hưng là một phong trào văn hóa đã tác động sâu sắc tới đời sống châu Âu trong thời sơ kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, lan ra khắp châu Âu vào thế kỉ 16, ảnh hưởng của nó hiện diện trong văn học, triết học, mĩ thuật, âm nhạc, chính trị, khoa học, tôn giáo, và các khía cạnh khác của đời sống tinh thần . Đây là thời kỳ đánh dấu sự chuyển dịch trung tâm học thuật từ Hy Lạp qua Ý, lên Bắc Âu rồi lan ra toàn châu Âu.
Đến cuối thế kỷ 15, “châu Âu được bao phủ bởi một mạng lưới đại học đáng kể, ước tính có khoảng trên 80 trường đại học mà phần lớn vẫn còn tồn tại hôm nay. Anh quốc, ngoài Oxford, Cambridge có thêm các đại học Glasgow, St.Andrew, Aberdeen. Bắc Âu có Kopenhagen, Uppsala. Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha có rất nhiều đại học. Trong thời gian các năm từ 1350-1500 có khoảng 750.000 người đã ghi danh” (số liệu của TS Nguyễn xuân Sanh).
Đối lập hoàn toàn với thời Trung kỳ Trung Đại, khi các học giả Latin tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các công trình tiếng Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và khoa học, các học giả Phục Hưng quan tâm chủ yếu đến việc khôi phục và nghiên cứu các tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện tiếng Latin và Hy Lạp.
Việc này bắt đầu từ thế kỉ 14 với một giai đoạn Latin, khi các học giả Phục Hưng như Petrarca, Coluccio Salutati (1331-1406), Niccolò de' Niccoli (1364-1437) và Poggio Bracciolini (1380-1459) lùng sục các thư viện châu Âu để tìm kiếm các tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện thời Cổ đại viết bằng tiếng Latin của Cicero, Livius và Seneca... Tới đầu thế kỉ 15, một khối lượng lớn tư liệu Latin được khôi phục, và các học giả phương Tây bắt đầu chuyển sự chú ý sang các tác phẩm thần học, hùng biện, văn học, lịch sử Hy Lạp. Khác với tư liệu Latin, những tư liệu Hy Lạp nhận được sự quan tâm rất hạn chế những thế kỷ đầu thời Trung Đại, trừ Byzantine vẫn tiếp tục nghiên cứu chúng như là di sản văn hóa chính thống của họ. Sự kiện thường được cho là đánh dấu sự trở lại của ngôn ngữ Hy Lạp trong nền học thuật châu Âu là vào cuối thế kỷ 14 khi Coluccio Salutati mời nhà ngoại giao và học giả Byzantine Manuel Chrysoloras tới Florence để dạy tiếng Hy Lạp. Đặc biệt các cuộc Thập tự chinh và sau đó là sự sụp đổ của thành Constantinopolis năm 1453 đã dẫn đến làn sóng tỵ nạn của các học giả Byzantine sang châu Âu định cư, mang theo một khối tư liệu Hy Lạp vô cùng quý giá.
Chính trong trọng tâm nghiên cứu mới về tài liệu văn học và lịch sử mà các học giả Phục Hưng thế kỷ 14-16 khác biệt với các học giả Trung cổ của thời kỳ Phục Hưng thế kỷ 12, những người tập trung vào nghiên cứu các công trình Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và toán học.
Ngoài việc nghiên cứu tiếng Latinh cổ điển và tiếng Hy Lạp, các tác giả Phục Hưng cũng ngày càng sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ dân tộc, kết hợp với sự xuất hiện của in ấn, điều này cho phép ngày càng nhiều người tiếp cận được với sách, đặc biệt là Kinh Thánh.

Nguồn tham khảo chính:

1. http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1120-02-633396300898281250/Tu-co-dai-toi-phuc-hung/Thoi-Phuc-hung-Chau-Au-lan-thu-nhat.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét